Di chuyển để kết nối
Cô Lữ Mai Hoàn giải thích: “Về cơ bản, hoạt động rước kiệu với danh nghĩa thần linh địa phương xuất hành đến nơi khác nhằm kết nối với các nguồn lực như tôn giáo, chính trị, kinh tế và con người ở nhiều nơi khác nhau v.v..., từ đó xây dựng và tăng cường những mối liên kết này”.
Thời xưa, những tín đồ tham gia lễ rước kiệu Bà Thiên Hậu Bạch Sa Đồn (được gọi là “hương đăng cước”, tức những bước chân hành hương) đa số là người dân địa phương, nhưng đến nay trên 90% là người sống ở nơi khác. Lộ trình lễ rước kiệu Bà Thiên Hậu Bạch Sa Đồn không cố định, thêm vào đó là tốc độ đi nhanh chậm của mỗi lần cũng khác nhau, nếu đi theo kiệu Bà Thiên Hậu (còn gọi là “tùy hương”) là một việc không dễ dàng. Vì thế, trong dân gian lưu truyền rằng “người đi được nên đợi người không đi được” với ý nghĩa trên đường hành hương mọi người nên giúp đỡ, chăm sóc lẫn nhau.
Suốt hành trình lễ rước kiệu Bà Thiên Hậu Bạch Sa Đồn, tất cả những vấn đề thức ăn nước uống, nơi dừng chân nghỉ ngơi v.v..., đều được tín đồ thập phương tự nguyện cung cấp. Cô Lữ Mai Hoàn nói, việc quyên góp này đều xin phép sự đồng ý của Bà Thiên Hậu bằng cách gieo quẻ hỏi xem có được phép hay không? Phải chuẩn bị bao nhiêu? Thông thường thì Bà Thiên Hậu đều đồng ý, vật phẩm chuẩn bị đều được phân phát hết, không tạo gánh nặng lãng phí cho mọi người. Những năm gần đây, tín đồ đi hành hương có phong trào tự làm “quà kết duyên” (quà kỷ niệm kết duyên với Bà Thiên Hậu), ví dụ như bùa bình an, thiệp kỷ niệm, móc trang trí, ba lô hoặc móc khóa v.v... để tặng cho những khách hành hương có duyên với mình trong chuyến đi, hoặc khi được giúp đỡ cho ở trọ. Những món quà kết duyên nho nhỏ này chính là minh chứng cho mối lương duyên với Bà Thiên Hậu, thể hiện sự kết nối giữa người với người.
Cô Lâm Mỹ Dung thì giải thích rằng, nam thần trong xã hội người Hán phải thể hiện quyền lực, dựa vào việc tứ phương đại chúng đến chiêm bái để chứng tỏ quyền uy nhưng đối với Bà Thiên Hậu thì lại dựa vào sự chuyển động trong cuộc hành hương để kết nối nguồn lực khắp nơi, từ đó tạo ra sức ảnh hưởng. Cũng giống như truyền thống nam chủ ngoại sự, nữ chủ nội sự trong xã hội người Hán, nhưng người phụ nữ lợi hại ở điểm họ rất giỏi việc giao lưu đi lại giữa họ hàng gia quyến với nhau để kết nối trao đổi các nguồn lực. Cô Lâm Mỹ Dung hình dung khả năng linh động của nữ giới trong xã hội người Hán một cách vô cùng sống động, chính vì thế lễ rước kiệu Bà Thiên Hậu giống như hành trình lưu động của các thôn làng với nhau, từ đó tạo sợi dây liên kết và tạo ra sức ảnh hưởng, “tín ngưỡng Bà Thiên Hậu thịnh hành ở Đài Loan như thế, nó đại diện cho sự khẳng định của xã hội phụ hệ đối với năng suất lao động của nữ giới”.
Bước trên con đường của chính mình
Cô Lữ Mai Hoàn nói: “Nhìn lại Đài Loan của thế kỷ trước, do sự phát triển hiện đại hóa, đề cao giá trị tiến bộ của lý trí và khoa học, so với tôn giáo các nước phương Tây, tín ngưỡng dân gian bị cho là đã lỗi thời, là mê tín và vị lợi”. Cô kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về chuyến điều tra thực địa trong lễ rước kiệu Bà Thiên Hậu Bạch Sa Đồn hồi năm 2011. Năm đó, lễ rước kiệu Bà Thiên Hậu Bạch Sa Đồn trên đường trở về, không chọn lối đi qua cầu Tây Loa (Xiluo) mà chiếc kiệu cứ thế đi theo sự chỉ dẫn của Bà Thiên Hậu lội qua suối Trọc Thủy (Zhuoshui). Lúc đó, cô đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc lịch sử này, nhiều người hỏi nhau: “Có thật là phải lội xuống nước không?”, ngay khi đó có tín đồ địa phương nói: “Đừng sợ! Bà Thiên Hậu dẫn đường, yên tâm đi!”. Với niềm tin đó, mọi người kéo nhau cởi giày tất ra, lần lượt nắm tay nhau, đỡ nhau từng bước chân trần đi qua lòng sông cát lún. “Trong lúc lội dưới dòng sông lạnh cóng, tôi cảm nhận được thế nào là hơi ấm tốt đẹp của sự đồng hành giúp đỡ lẫn nhau, gió thổi nhẹ cuốn bay đất cát bên suối, người người thành tâm cúi lạy Bà Thiên Hậu. Cảnh tượng đó đẹp đến mức khiến mọi người ai nấy đều rơi lệ”, cô Lữ Mai Hoàn thuật lại cảnh tượng lúc bấy giờ: “Điều này cũng cho thấy, tín ngưỡng đã chạm đến trái tim của mỗi con người”.
Những năm gần đây, ý thức bản địa Đài Loan được nâng cao, hoạt động rước kiệu Bà Thiên Hậu cũng đã trở thành “điều phải trải nghiệm một lần trong đời” của giới trẻ. Các bạn trẻ thông thạo việc sử dụng hình ảnh, mỗi một thước phim hành hương được giữ lại đều cho thấy việc mà họ quan tâm đã khác với thế hệ người đi trước. Các bạn học sinh chia sẻ với cô Lữ Mai Hoàn rằng, trên đường đi muốn ăn thử các món ngon địa phương, trong lúc đi hành hương nếu chân bị phồng rộp thì phải xử lý ra sao. “Những bạn trẻ này, điều mà họ quan tâm là 'tôi ở đây', 'cảm nhận của tôi như thế nào' v.v...”, dùng thể xác trải nghiệm văn hóa của chính mình, muốn hiểu xã hội này, muốn nhìn cuộc sống của những người khác diễn ra như thế nào, không còn gì để nghi ngờ nữa, đó chính là sự thể hiện niềm tự tin về văn hóa của bản thân.
Người nhiều năm cống hiến cho việc nghiên cứu văn hóa bản địa Đài Loan, cô Lâm Mỹ Dung chỉ ra rằng, văn hóa bản địa những năm về trước luôn bị kìm nén, mãi đến khi phong trào bản địa hóa vào năm 1980, sự hiểu biết và khai sáng về vùng đất của chính mình mới dần được đánh thức. Bà Thiên Hậu chính là nữ thần đầu tiên của Đài Loan, tín ngưỡng Bà Thiên Hậu đã gắn kết sâu đậm với cuộc sống của người Đài Loan. Thực ra không chỉ "cuồng" Bà Thiên Hậu vào tháng 3 âm lịch, mà người Đài Loan cúng viếng Bà Thiên Hậu trong suốt cả năm. Nhiều đền thờ Bà Thiên Hậu chính là một viện bảo tàng, lưu giữ biết bao dấu ấn lịch sử, những nét điêu khắc tinh xảo của người thợ, nghệ thuật dân gian như nhóm ca đoàn diễn xướng, nhóm võ thuật dân gian cúng tế thần linh và môn nghệ thuật múa Zhentou tế thần cũng nhờ tín ngưỡng Bà Thiên Hậu mà trở nên thịnh hành và được khoác lên một diện mạo mới. Cô mời gọi bạn bè nước ngoài khi đến Đài Loan đừng quên làm một chuyến viếng thăm đền Thiên Hậu, tham gia lễ hội rước kiệu Bà Thiên Hậu hàng năm, ngắm nhìn cuộc sống của người dân Đài Loan và cảm nhận tình người ấm áp, trải nghiệm mối quan hệ giữa thần thánh và con người mang đậm chất Đài Loan.